CÁC LOẠI CỔ PHIẾU

Cổ phiếu thông thường


- Khi một công ty được thành lập, những cổ đông đầu tiên là những nhà đồng sáng lập và nhà đầu tư sớm. Lấy ví dụ, nếu một công ty khởi nghiệp có hai đồng sáng lập và một nhà đầu tư, mỗi người có thể sở hữu một phần ba số cổ phiếu của công ty. Mỗi khi công ty phát triển và cần thêm vốn để mở rộng, nó có thể sẽ phát hành thêm cổ phiếu đến các nhà đầu tư khác, vì vậy những người thành lập ban đầu có thể sẽ sở hữu số cổ phiếu ít hơn so với tỉ lệ phần trăm ban đầu. Trong giai đoạn này, công ty và cổ phiếu sẽ được xem nhu kín. Thông thường cổ phiếu kín khá khó khăn để trao đổi, và số cổ đông là tương đối nhỏ.

- Khi công tu tiếp tục phát triển, tuy nhiên, thường sẽ có một thời điểm những nhà đầu tư ban đầu muốn bán cổ phần của mình và chuyển đổi lợi nhuận đầu tư sớm của mình thành tiền. Song song đó, công ty cũng có thể sẽ cần thêm nhiều khoản đầu tư mà lượng nhỏ những nhà đầu tư kín có thể đưa ra. Ở thời điểm này, công ty sẽ cân nhắc việc phát hành cổ phiếu ra công chúng( initial public offering) hay IPO, biến công ty "kín" thành một công ty "mở".

- Ngoài vấn đề phân biệt giữa công ty kín/mở, có hai loại cổ phiếu mà công ty có thể phát hành: cổ phiếu thông thường và cổ phiếu ưu đãi.

1) Cổ phiếu thông thường

- Khi nói đến cổ phiếu, người ta thường ám chỉ đến cổ phiếu thông thường. Thực tế, phần lớn cổ phiếu đều được phát hành ở dạng này. Cổ phiếu thông thường biểu thị quyền sở hữu trên lợi nhuận( cổ tức) và  được cho quyền biểu quyết. Nhà đầu tư thường có được một phiếu bầu cho mỗi cổ phiếu mình sở hữu khi quyết định thành viên hội đồng quản trị để giám sát các quyết định quan trọng trong việc quản lí công ty.

- Xét dài hạn, cổ phiếu thông thường, bằng cách phát triển vốn, thường mang lại lợi nhuận cao hơn so với trái phiếu. Cái lợi nhuận cao này, tuy vậy đi kèm với nguy cơ lớn, bởi mức độ rủi ro của cổ phiếu là nguy cơ mất trắng khoản đầu tư nếu công ty bị đình chỉ hoạt động. Nếu một công ty phá sản và phải thanh lý tài sản, cổ đông bình thường sẽ chỉ được nhận tiền một khi chủ nợ, người giữ trái phiếu và những cổ đông được ưu đãi.

2) Cổ phiếu ưu đãi

- Cổ phiếu ưu đãi vận hành gần giống với trái phiếu, và thường không di kèm với quyền biểu quyết( tùy công ty, nhưng thông thường là không). Với cổ phiếu ưu đãi, nhà đầu tư thường được đảm bảo sẽ có một lượng cổ tức cố định suốt đời. Điều này khác với cổ phiếu thông thường với cổ tức tùy đổi được đưa ra bởi hội đồng quản trị và không được đảm bảo.

- Một ưu điểm nữa là vào tình thế thanh lí công ty, cổ đông ưu đãi sẽ được trả tiền trước các cổ đông bình thường. Những cổ phiếu ưu đãi này cũng có thể " được trả ngay", có nghĩa là công ty có quyền thu mua những cổ phiếu này từ những cổ đông ưu đãi bất cứ lúc nào vì bất cứ lí do nào( thường thêm một khoản tiền thưởng). Một cách nghĩ đơn giản nhất về những cổ phiếu này là xem chúng như lai giữa cổ phiếu và trái phiếu.


- Cổ phiểu thông thường và ưu đãi là hai dạng chính của chứng khoán; tuy nhiên, các công ty vẫn có thể tùy chỉnh các cấp cổ phiếu khác nhau để phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư. Cái lí do phổ biến nhất để tạo các cấp cổ phiếu là để công ty duy trì quyền biểu quyết tập trung vào  những nhóm nhất định. Do đó, các cấp khác nhau sẽ có quyền biểu quyết khác nhau. 

- Ví dụ, một cấp cổ phiếu được sở hữu bởi một nhóm được chọn có thể có mười phiếu biểu quyết trên mỗi cổ phiếu, trong khi một cấp khác được phát hành cho đa số nhà đầu tư sẽ chỉ có một phiếu bầu trên mỗi cổ phiếu. Khi có hơn một cấp cổ phiếu, các cấp này thường được chỉ định như cấp A và B, vân vân. Lấy ví ụ công ty Berkshire Hathaway của tỉ phú Warren Buffett có hai cấp cổ phiếu, được biểu thị  bằng cách thêm chữ vào sau tên kí hiệu như sau : " BRKa, BRKb" hoặc " BRK.A; BRK.B"

Popular posts from this blog

CHAP 1

BACKSTAGE VIEW TRONG EXCEL

ME, HER, AND THE BALLISTIC WEAPONRY [ANTIQUE] CHAP 7