CHỨNG KHOÁNG LÀ GÌ

Chứng khoáng là gì

Chứng khoán là gì?

- Bạn có lẽ đã từng nghe cái định nghĩa phổ biến về chứng khoán: “ Một cổ phần là một cổ phiếu chia sẻ quyền sở hữu đối với công ty. Cổ phiểu biểu thị cho quyền sở hữu với tài sản và thu nhập của công ty. Mỗi khi bạn có được thêm nhiều cổ phiếu hơn, quyền sở hữu của bạn với công ty sẽ trở nên lớn hơn”. Tuy nhiên, cách giải thích này còn sai ở nhiều điểm quan trọng.

- Trước tiên, những người sở hữu cổ phiếu( cổ đông) không sở hữu các tập đoàn; họ sở hữu những cổ phiếu được phát hành bởi các tập đoàn. Thêm nữa, tập đoàn là một dạng tổ chức đặc biệt do luật pháp xem chúng như những con người hợp pháp. Nói một cách khác, các tập đoàn phải đóng thuế, có quyền sở hữu vật tư, và có thể bị kiện, vân vân. Khi ta nói tập đoàn là một “con người”, điều này có nghĩa là nó sẽ sở hữu tài sản của chính nó. Một văn phòng tập đoàn với đầy những bàn, ghế sẽ thuộc về tập đoàn, chứ không thuộc về cổ đông.

- Điểm này là một đặc trưng quan trọng bởi tài sản một tập đoàn và tài sản cổ đông  là tách biệt theo pháp luật; điều này sẽ giúp hạn chế những trách nhiệm pháp lý của cả tập đoàn và cổ đông. Nếu tập đoàn phá sản, toà án sẽ có thể ra quyết định bán tài sản tập đoàn- nhưng tài sản cá nhân của bạn sẽ không bị ảnh hưởng. Tòa án sẽ không thể ép bạn phải bán cổ phần của mình, mạc dù giá cổ phiếu có thể đã giảm giá rất mạnh. Và ngược lại, nếu đại cổ đông phá sản, họ cũng không được quyền bán tài sản tập đoàn để trả nợ.

- Cái mà cổ đông sở hữu là cổ phần được phát hành bởi tập đoàn; còn tập đoàn sẽ sở hữu tài sản. Vậy nếu bạn sở hữu 33% số cổ phiếu của một công ty, nó sẽ không chính xác khi cho rằng bạn sở hữu một phần ba công ty đó; mà nó sẽ chính xác khi nói bạn sở hữu 100%  một phần ba số cổ phiếu của công ty. Cổ đông sẽ không có quyền “muốn làm gì thì làm” với một tập đoàn cũng như với tài sản của nó. Một cổ đông sẽ không thể lấy về một cái ghế bởi lẽ tập đoàn sở hữu cái ghế đó chứ không phải cổ đông. Điều này được biết đến như “ sự tách rời quyền sở hữu và quản lí”.

- Vậy cổ phiếu có ích lợi gì, khi mà chúng thực tế không phải quyền sở hữu như ta vẫn nghĩ? Sở hữu cổ phần cho bạn quyền bỏ phiếu trong những cuộc họp cổ đông, nhận cổ tức( lợi nhuận của công ty) nếu có, và quyền bán cổ phần của bạn cho một người khác.

- Nếu bạn sở hữu một phần lớn cổ phần, quyền biểu quyết sẽ lớn hơn, giúp bạ điều khiển hướng đi của công ty một cách gián tiếp thông quan việc quyết định hội đồng quản trị. Điều này trở nên rõ nhất khi một công ty mua một công ty khác: công ty  mua sẽ không mua những tòa nhà, nhân viên hay bộ bàn ghế; mà sẽ mua toàn bộ cổ phần của công ty đó. Hội đồng quản trị sẽ chịu trách nhiệm về việc làm gia tăng giá trị của tập đoàn, và thường bằng cách thuê những nhà quản lí chuyên nghiệp, ví dụ như Giám đốc điều hành(Chief Executive Officer) hay CEO.

- Với những cổ đông bình thường, việc không được quản lí một công ty không phải là vấn đề lớn. Cái vấn đề quan trọng của việc làm một cổ đông là việc bạn được nhận một phần lợi nhuận công ty, cái mà, ta sẽ thấy, là nền móng của giá trị cổ phiếu. Bạn càng sở hữu nhiều cổ phiếu, phần lợi nhuận bạn nhận được càng cao. Nhiều cổ phần, tuy nhiên, không chia cổ tức, thay vào đó tái đầu tư số lợi nhuận vào việc phát triển công ty. Những phần lợi nhuận được giữ lại này, tuy nhiên, sẽ vẫn được phản ánh trong giá trị của cổ phần.

- Cổ phần- đôi khi sẽ được gọi là vốn sở hữu- được phát hành bởi công ty để tăng vốn nhằm mục đích mở rộng kinh doanh hay tiến hành dự án mới. Nó cũng có những đặc trưng quan trọng giữa việc một người mua cổ phiếu trực tiếp từ công ty khi chúng được phát hành( trong thị trường chính thức) hoặc mua lại từ một cổ đông khác( thị trường phi chính thức). Khi một tập đoàn phát hành cổ phiếu, nó làm vậy để đổi lấy tiền.

- Công ty cũng có thể gây quỹ bằng cách mượn, hoặc trực tiếp bằng một khoản vay từ ngân hàng, hay bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu về cơ bản khác với cổ phiếu qua nhiều điểm. Trước hết, người giữ trái phiếu là những chủ nợ của tập đoàn, và sẽ được hưởng từ lãi suất cũng như khoản nợ phải trả. Chủ nợ sẽ được ưu tiên so với stakeholder (tạm dịch các bên liên quan) trong trường hợp công ty phá sản và phải bán tài sản để trả nợ. Cổ đông, trái lại, thường được xét đến cuối và sẽ không được nhận gì, hoặc rất ít trong trường hợp phá sản. Điều này cho thấy cổ phiếu thường là khoản đầu tư mạo hiểm hơn so với trái phiếu.

- Tuy vậy điều ngược lại cũng đúng: người giữ trái phiếu chỉ được hưởng khoản lãi suất nợ được đề xuất trên trái phiếu, trong khi cổ đông sẽ được hưởng từ lợi từ lợi nhuận của công ty, về lí thuyết là vô tận. Cái rủi ro gắn với cổ phiếu thường được trung hòa bởi thị trường: cổ phiếu có lợi nhuận trung bình hằng năm từ 8-10%, trong khi trái phiếu là 5-7%.


Ghi chú: 
Cổ tức: Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần

Nguyễn Hoàng Anh

Popular posts from this blog

CHAP 1

BACKSTAGE VIEW TRONG EXCEL

ME, HER, AND THE BALLISTIC WEAPONRY [ANTIQUE] CHAP 7